Nhớ lại những bài học thuộc lòng trong sách giáo khoa tiểu học năm 1958

Tiếp theo phần đầu tiên, ghi lại những bài thơ, bài học thuộc lòng trong sách giáo khoa bậc tiểu học ở miền Nam được soạn năm 1957, trong bài này là những bài thơ được soạn năm 1958, đã gắn liền với ký ức của những thế hệ học trò tiểu học thập niên 1960:

1.

Xinh xinh

Có khu vườn xinh xinh,
Và khoảnh sân nho nhỏ.
Chim đâu về làm tổ,
Trên cành cây xinh xinh.

Có vườn rau xinh xinh,
Luống cà chua chín đỏ,
Những cành hoa nho nhỏ,
Theo làn gió rung rinh.

Có đường đi xinh xinh,
Theo vườn cau nho nhỏ.
Lối vào nhà em đó,
Sum họp với gia đình.

VĨNH HUYỀN
(Tiểu Học Nguyệt San, tháng 1.1958)

2.

Ngọn cờ lau

Hoa Lư một ngọn cờ lau,
Trẻ thơ cùng lũ chăn trâu tập tành.
Lớn lên, võ nghệ tinh nhanh,
Theo Trần Minh Chủ dẹp bình Sứ quân.

Đánh đâu được đấy, xa gần,
Hơn năm trời đã về phần Thắng Vương.
Mười hai sứ họp một phương,
Đinh Tiên Hoàng đã dẹp đường phân tranh.

Đại Cồ Việt nức uy danh,
Ngàn năm ghi dấu nơi thành Hoa Lư.

BẢO VÂN
(Tiểu Học Nguyệt San, tháng 1.1958)

3.

Hưng Đạo Vương

Ban đầu ít tướng thưa binh,
Nên quân Mông Cổ chiếm thành Thăng Long.
Vua, tôi đều dốc một lòng,
Vào Thanh tổ chức trong vòng ít lâu.

Toa Đô trước trận rơi đầu,
Thoát Hoan vội trốn về Tầu trông sang…
Lần sau trên Bạch Đằng Giang,
Thoát Hoan lại trốn theo Hoằng Thao xưa.

Quân ta chém tướng, cướp cờ,
Mã Nhi bị trói, bên bờ giặc tan…
Thăng Long lại hiện bóng vàng,
Tiếng anh hùng vẫn còn vang muôn đời…

BẢO VÂN
(Tiểu Học Nguyệt San, tháng 1.1958)

4.

Cái Sắn tốt tươi

Cái Sắn gió mát, trăng trong,
Sẵn kênh cá lặn, sẵn đồng cò bay.
Người làm vui vẻ đêm ngày,
Bên kia vỡ ruộng, bên đây dựng nhà.

Họp thành trại ấp gần xa,
Người Nam, kẻ Bắc mặn mà hả hê.
Canh nông sẵn nếp đồng quê,
Thêm nghề chài lưới, xen nghề chăn nuôi.

Xe đò buôn bán, ngược xuôi,
Dưới sông, trên chợ, muôn người ganh đua.
Rồi đây, trường học, đình chùa,
Dân y, bưu chính chẳng thua nơi nào.

Đ. Q.
(Tiểu Học Nguyệt San, tháng 2.1958)

5.

Nghề nông

Non cao cũng có đường leo,
Đường dẫu khó trèo, cũng có lối đi.
Cao nguyên đất tốt lo gì,
Cày cấy kịp thì, chồng vợ ấm no.

Đất mầu trồng đậu, trồng ngô,
Đất lầy cấy lúa, đất khô làm vườn.
Nghề nông ra sức khuếch trương,
Cao nguyên phá rẫy, làm nương ven đồi…

Tưởng rằng đá rắn thì thôi,
Ai ngờ đá rắn nung vôi lại nồng.
Tưởng rằng đất núi gai, chông,
Ai ngờ đất núi cấy trồng nở hoa…

DÂN VIỆT
(Tiểu Học Nguyệt San, tháng 2.1958)

6.

Mạ xanh

Mạ xanh thơm ngát khắp nơi,
Lúa non sóng gợn chân trời rung rinh.
Đồng quê ấp ủ bao tình,
Mưa nhiều thấm đất, vươn mình lúa cao.

Lúa lên cao, chứa bao hi vọng,
Nhìn cánh đồng nằm võng ru con:

“Mạ xanh trổ lá tươi non,
Gió mưa hòa thuận, khoai ngon, thóc đầy.
Cái ngủ, mày ngủ cho say,
Có công cày cấy, có ngày ấm no…”

ĐỀ QUYÊN
(Bùi Văn Bảo, Việt văn toàn thư, lớp Ba)

7.

Cố học

Mười ngày nghỉ Tết qua rồi,
Chúng em chăm gấp mấy mươi dạo nào.
Nhớ hôm mùng một phong bao,
Lời Bà dặn: “Cố sao nên người”.

Khoanh tay thưa: “Cháu nhớ lời
Từ nay chăm học làm vui cả nhà…”
Rồi em vịn lấy tay Bà,
Cùng đi lễ Tết, trẻ già bên nhau.

Mười ngày nghỉ Tết đến mau!
Chúng em cố học, mai sau nên người.
Mùa xuân hoa cỏ tốt tươi,
Chúng em chăm chỉ không lười như xưa!

THI THI
(Tiểu Học Nguyệt San, tháng 3.1958)

8.

Lam Sơn khởi nghĩa

Bao năm sắm sửa, đợi chờ,
Lam Sơn gióng trống, mở cờ ra binh.
Quyết lòng tận diệt quân Minh,
Giữa hàng tướng tá xưng Bình Định Vương.

Mười năm lận đận bốn phương,
Gian nan rồi mới lên đường vinh quang.
Trận cuối cùng, ải Chi Lăng,
Vương Thông nộp giáo, Liễu Thăng rơi đầu.

Hồ Gươm xanh ngắt một màu,
Tưởng chừng kiếm quý còn đâu chốn này!

BẢO VÂN
(Tiểu Học Nguyệt San, tháng 3.1958)

9.

Đồng quê thanh bình

Đường đê uốn khúc quanh co,
Cánh diều sáo vẫn vo vo giữa trời.
Đàn cò trắng toát như vôi,
Theo mây vàng lững lờ trôi… lững lờ.

Trên trời mấy dải mây tơ,
Dưới ruộng đương bừa, mấy cọng rơm trôi.
Đồng quê vừa nhọ mặt người,
Chiếc vạc tìm mồi “quang quác” kêu đêm.

Xóm làng khi đã ngủ yên,
Chỉ còn tiếng trống luân phiên điểm giờ.
Thanh bình êm tựa giấc mơ,
Đồng quê là một bài thơ thanh bình.

XQ.
(Tiểu Học Nguyệt San, tháng 4.1958)

10.

Trận mưa rào

Hôm qua có trận mưa rào,
Mưa ra ngoài ruộng, mưa vào luống rau.
Lúa em ngọn héo lá rầu,
Nhờ mưa xanh lúa, tốt rau vườn nhà.

Công phu dãi nắng dầm mưa,
Em mong lúa tốt: “Là thừa ấm nơ”.
Cha em đi sớm về trưa,
Be bờ, tát nước, được mùa năm nay?

Mẹ em cũng cấy cũng cày,
Ra công xây dựng lại ngày vui xưa…

Theo THU HOÀI
(Tiểu Học Nguyệt San, tháng 5.1958)

11.

Chờ mong mẹ về

Trưa hè chói nắng chang chang,
Chùm hoa phượng thắm trên hàng cây cao.
Gió, tre nói chuyện rì rào,
Có đàn chim sẻ bay vào mái tranh.

Rập rờn sóng lúa lượn xanh,
Con sông đào nhỏ uốn quanh cánh đồng.
Sáo diều văng vằng trên không,
Reo vang khúc hát “Chờ mong hè về”.

Mai đây trên cánh đồng quê,
Chúng em mải miết, say mê nô đùa.
Thông reo, sóng vỗ, gió lùa,
Giục đàn trẻ nhỏ thi đua đón hè…

TRƯỜNG SƠN
(Tiểu Học Nguyệt San, tháng 5.1958)

12.

Em đau

Những khi trái nắng, trở trời,
Em đau, là mẹ đứng ngồi không yên.
Tìm thầy, lo chạy thuốc men,
Đêm ngày săn sóc, vì em nhọc nhằn.
Hết bóp trán loại xoa chân,
Lúc ly sữa ngọt, khi cân cam sành.

Em ho: ngực mẹ tan tành,
Em sốt: lòng mẹ như bình nước sôi.
Em nằm khấn Phật, cầu Trời,
Sao cho chóng khỏi, mẹ cười, em vui.

ĐẶNG DUY CHIẾU
(Tiểu Học Nguyệt San, tháng 10.1958)

13.

Đừng tham ăn

Ăn quen rồi nhịn chẳng quen,
Ngồi ăn nghiêng ngả ai khen bao giờ.
Bụng no, con mắt chưa no,
Ăn nhai nói nghĩ phải cho đường hoàng.

Chớ đừng nhai, nuốt vội vàng,
Hóc xương bội thực nhỡ nhàng khổ thân.
Cái gì không biết đừng ăn,
Uống ăn càn bậy, có lần oan gia.

VŨ HUY CHÂN
(Tiểu Học Nguyệt San, tháng 10.1958)

14.

Mẹ chợ về

Mẹ em đi chợ đã về,
Em ra đón mẹ, em bê rổ vào.
Hôm nay nhiều thứ làm sao!
Nào tôm, nào cá, bí đao, cua đồng.

Lại thêm mấy mớ cải ngồng,
Lá xanh che kín mấy bông hoa vàng.
Bé Vân chạy đến vội vàng,
Mẹ đưa cho gói ngô rang, em cười.

NHƯ TUYẾT
(Tiểu Học Nguyệt San, tháng 10.1958)

15.

Đan áo

Chị ơi, em nhớ ngày xưa lắm,
Chị thích ngồi đan chiếc áo lam.
Chị ngồi đan áo, em ngồi ngắm,
Tay nhẹ nhàng đưa đếm… vạn hàng.

Ngoài kia gió lộng thêm băng giá,
Xơ xác cây khô, trống trải buôn.
Trong này em thấy vui… vui lạ,
Mặc vừa chiếc áo chị vừa đan.

VẠN LINH VÂN
(Tiểu Học Nguyệt San, tháng 11.1958)

16.

Ao ước

Trong góc tường ướt át,
Nhìn mưa tí tách rơi.
Vai chị, em kề sát,
Gió lộng tóc tơi bời.

Bên phòng học ấm êm,
Giọng cô giáo êm đềm.
Trong ánh đèn hớn hở,
Xanh đỏ nhiều áo len.

Em bé nhìn ngây thơ,
Chị em mình bao giờ.
Sướng vui như họ nhỉ?
Êm ấm bên thầy, cô.

Ủ em trong đôi tay,
Chị nghẹn ngào mơ ước.
Một chiếc áo len dày,
Ấm em giờ lạnh buốt.

VƯƠNG KIỀU THU
(Tiểu học Nguyệt San, tháng 11.1958)

17.

Nên dùng nội hóa

Người ta, dùng của nước ta,
Những đồ ngoại hóa xa hoa chớ dùng.
Để cho con Lạc, cháu Hồng,
Sẵn công, sẵn việc có đồng mà tiêu.

Giấy rách phải giữ lấy lề,
Người Việt phải biết yêu nghề Việt Nam.
Muốn cho nước mạnh dân sang,
Phải dùng nội hóa chớ ham hàng người.

Trích báo T.D.
(Tiểu Học Nguyệt San, tháng 11.1958)

18.

Tấm áo

Tiếng đồng hồ chậm chậm,
Tích tắc điểm trong đêm.
Em nhìn thấy cha em,
Đọc báo và suy nghĩ.
Mẹ cũng không ngồi nghỉ,
Vẫn cắt cắt khâu khâu…
Tiếng kéo giữa đêm thâu,
Đều đều chia thớ vải.
Tay mẹ đưa mềm mại,
Từng đường chỉ, mũi kim.
Và nói với cha em:
“May cho con tấm áo”.

THI THI
(Bùi Văn Bảo, Việt văn toàn thu, lớp Ba)

19.

Nhớ ơn tổ tiên

Sung sướng như chúng ta,
Thực là nhờ ông cha.
Giếng sâu mạch nước tốt,
Cây cao bóng rợp xa.

Nước giếng uống đỡ khát,
Bóng cây, ngồi râm mát.
Ơn cây, mong càng cao,
Ơn giếng, mong đừng cạn.

Ta ơn sự học này,
Như giếng lại như cây.
Ông cha để lại đó,
Ta mong ngày càng hay.

TẢN ĐÀ
(Tiểu Học Nguyệt San, tháng 12.1958)

20.

Lòng thương con

Mẹ là cây, chuyển nhựa đời,
Nuôi cho là những nụ cười nở hoa.
Mẹ là biển rộng bao la,
Trào muôn đợt sóng, chính là các con.

Mẹ là rừng thẳm núi non,
Chúng con, tiếng hót véo von trên cành.
Đẹp như bát ngát trời xanh,
Lòng thương của mẹ, mẹ dành cho con.

HƯƠNG THU
(Tiểu Học Nguyệt San, tháng 12.1958)

21.

Chị tôi

Chị tôi chiều tôi lắm,
Vì chúng tôi mồ côi.
Thầy mẹ đều mất sớm,
Còn hai chị em thôi.

Ngày ngày một buổi chợ,
Chị gánh hàng bán buôn.
Trưa về, trên khung cửi,
Chị dệt tới hoàng hôn.

Chị cho tôi lên tỉnh,
Trọ học nhà người quen.
Và cứ mỗi đầu tháng,
Chị gửi ra gạo, tiền.

Mỗi lần thấy tôi về,
Chị vui mừng hả hê!
Hỏi han bài vở học,
Và thưởng bánh đa kê.

THÙY HƯƠNG
(Tiểu Học Nguyệt San, tháng 12.1958)

Bên trên là những bài thơ, bài học thuộc lòng trong sách giáo khoa được soạn năm 1958 do tác giả Trần Văn Chánh tuyển chọn. Ở các phần sau, xin gửi đến độc giả những bài thơ được biên soạn trong các năm 1959, 1960…

Viết một bình luận